Giọng nói người Diêm Điền...

Người làng Diêm Điền thuộc phường Đức Ninh Đông (TP Đồng Hới -Quảng Bình) có gốc gác ở các tỉnh phía Bắc như Thanh Hoá, Thái Bình... di cư vào Đồng Hới từ hơn 400 năm trước.

Nói như tiếng chim

Sơ khai họ có nghề làm muối. Làng nằm trên một doi đất dài, địa hình như ngón chân một con chim khổng lồ duỗi ra. Nhiều người nói vui là có lẽ do vậy nên người Diêm Điền mới có tiếng nói tựa như... chim hót. Không chỉ thế, làng Diêm Điền còn có nhiều nghề truyền thống được xã hội ghi nhận.

< Lăng mộ Nguyễn Đức Cảnh tại Diêm Điền.

Thuở còn học phổ thông, lũ học trò nghịch ngợm chúng tôi hay đi qua cầu Cống Mười ngay bên làng Diêm Điền, ở đó các bà người Diêm Điền thường ra mò cua, bắt cá. Tôi và lũ bạn đứng trên đường cái, giả giọng họ để trêu chọc. Chẳng phải vì lý do gì sâu xa, chỉ là muốn nghe các bà... chửi bằng giọng Diêm Điền như chim hót cho vui mà thôi. Có khi các bà giận, lội lên mắng: “Chúng may bà tợn, bà nên bà bổ đao nên tôốc cho mà chết! (chúng mày ba trợn, bà lên bà bổ dao lên đầu cho mà chết)”. Chúng tôi sợ, chạy trối chết.

Cách nói và giọng nói của người Diêm Điền quả thật nghe như tiếng chim hót. Ngay người làng này cũng thừa nhận là có như vậy. Vì họ nói líu lo và nói rất nhanh. Phát âm sai nhiều từ, ngữ âm, thổ âm quá nặng, khi nói lại lên bổng xuống trầm, nhấn mạnh, đãi dài ra... liên tục. Khi nói họ rất hay diễn ý ở vị trí trung tâm trong câu, trong ngữ.

< Lễ hội thi bơi trải Diêm Điền

Ông Hoàng Mạnh Châm, người làng Diêm Điền - cho biết người làng không nói đúng được các chữ có từ đứng đầu như s, tr, d... Với các từ này họ sẽ nói sang th, t, r. Chính đặc điểm này làm cho giọng nói người Diêm Điền nghe rất nặng. Hoặc chữ l, n thì nói như một số tỉnh phía Bắc sang n, l. Thanh ngang nhiều lúc họ phát âm như thanh huyền, như không thành ra khồng, ăn thành ằn, ba thành bà...

Ngược lại, trong một số trường hợp, đôi khi những chữ có thanh huyền họ phát âm ra thành thanh ngang, như ngày lại nói thành ngay ... Nên nếu hai người Diêm Điền nói chuyện với nhau bằng 100% từ ngữ và giọng điệu của họ, người ngoài làng dù có lắng tai nghe bao nhiêu nữa cũng đố mà hiểu được là họ nói gì.

Cụ Bùi Văn Uy, người dân trong làng, cho biết chữ có dấu hỏi, dấu ngã là khó nói nhất, nên người dân thường phát âm chữ hỏi thành ra lơ lớ giữa hoi, hói, hòi, hoặc chữ ngủ nghe na ná chữ ngù, ngũ, ngụ... như đang luyến láy một nốt nhạc.


< Cách nhau một con hẻm, nhưng người bên phải thuộc làng Diêm Điền lại nói một thứ tiếng khác hẳn người ở phía bên trái (làng Nam Lý).

Bởi vậy, người Diêm Điền đi ra khỏi làng hoặc khi tiếp xúc với người khác thường chuyển sang nói bằng giọng Bắc, hay giọng các làng khác ở Đồng Hới. Người đi làm việc cho Nhà nước, hay đi làm ăn xa cũng phải vậy, mới giao tiếp được dễ dàng hơn.

Chính những phát âm sai chính tả và ngữ điệu, âm điệu như chim ấy của người Diêm Điền mà có biết bao câu chuyện vui được truyền tụng trong đời sống cộng đồng. Ông Phạm Phước, người Diêm Điền, vốn vẫn hay trào lộng về tiếng nói của làng mình với mọi người, kể bằng tiếng làng mình lẫn tiếng phổ thông: “Có cô gái người làng Diêm Điền đi chơi với người yêu ở làng khác, nói chuyện với bạn trai cô nói toàn giọng Bắc.

Chơi một lúc, anh con trai vói tay ôm cô gái, cô hoảng quá, quên mất mình là người Diêm Điền đang nói giọng Bắc, vậy là nói luôn giọng Diêm Điền: khồng được khồng được, thả tớ ra kẻo vê nha mạ tớ mắng, đánh tớ u tôốc thì nàm thao (không được không được, thả tớ ra kẻo về nhà mẹ tớ mắng, đánh tớ u đầu thì làm sao)!”.

Ông Châm lại kể chuyện vui: “Có chàng trai người Diêm Điền hẹn hò với cô gái khác làng dưới ánh trăng, bất ngờ chàng nói tiếng làng mình: Hồm này tời thao thưa, tăng tháng thủa em hè” (Hôm nay trời sao sưa, trăng sáng sủa em nhỉ)! Té ra anh chàng vì quá hồi hộp nên quên mất tiếng... phổ thông. Năm 1972, một lần đơn vị mình hành quân đêm giữa rừng, mình phát hiện tước mặt có một cái hố thâu, bèn tuyền ra thau hang quân là phía tước có hố! Chẳng hiểu giọng nói của mình nàm thao mà các bố nính nại tưởng là mình nói phía tước có hổ, thế nà cả bọn ho nhau chạy tán noạn cả”.

< Bến tàu cá ở Diêm Điền.

Một thợ xây người Diêm Điền thì kể vui: một thợ người Diêm Điền ở trên mái nhà nói với một thợ người làng khác đứng phía dưới là “May ném cho tớ cái rựa (như dao quắm) với!”. Anh thợ ở dưới cứ nói với lên: “Khi nãy tao bỏ một cái trên đó rồi, ngay dưới chân mi đó”. Nói qua nói lại không được, tìm quanh tìm quất mãi vẫn không thấy cái rựa đâu, anh thợ người Diêm Điền phải trèo xuống lấy lên. Té ra do giọng nói của anh thợ người Diêm Điền ở tiếng “rựa” đã được nhấn mạnh, nặng nề nghe cứ na ná như “rưa”, “rửa”, “rữa”... nên anh kia cứ tưởng là đang cần... bật lửa hút thuốc.

Cậu em bên vợ tôi lấy một cô người Diêm Điền, một lần đưa cô đi khám bệnh đau bụng, ra khỏi phòng khám nước mắt cô vòng quanh. Tưởng mắc bệnh gì nặng lắm, hỏi mãi cô mới nói: “Họ hoi lúc tháng đã ằn uống nhi chưa để nàm xét nghiệm máu. Nói với họ nà có đi uống nhiều nần nước tong (nước trong) rồi. Rứa ma họ cứ bóp bụng nói nà đã bị tiêu chảy vi ngộ độc thức ăn. Em bảo nà không phải, lói mãi lói mãi thi họ mắng: đã đi ra nước tong tỏng rồi mà còn khồng phải nà tiêu chảy!”.


< Nước mắm Diêm Điền.

Bà Hoàng Thị Hường, người Diêm Điền, năm nay 81 tuổi, nhà bà nằm ngay giữa ranh giới hai làng Diêm Điền và Nam Lý (thuộc phường Nam Lý). Vậy nhưng chưa bao giờ bà quên giọng nói gốc gác Diêm Điền của mình. Khi “sang” chơi với người Nam Lý là bà nói giọng Nam Lý, về nhà bà lại nói với cháu con giọng gốc của mình. Nhà bà Hường “bên này” và nhà người dân Nam Lý “bên kia” chỉ cách nhau có một cái ngõ nhỏ. “Vầy nhưng quê ai lói giọng quê lấy, khồng có chuyện tháo tộn qua nại chi hết”- bà Hường nói. Ông Hoàng Mạnh Châm cũng khẳng định: “Làng vẫn giữ được giọng nói chân chất, lạ lùng của mình, như một nét riêng của người Diêm Điền vậy”.

Làng của những bàn tay tài hoa

Người Diêm Điền ngoài giọng nói lạ, nói như chim còn có những điều được cộng đồng trọng vọng. Nhạc sĩ Hoàng Sông Hương, cũng là người làng Diêm Điền, vốn có tiếng qua nhiều bài hát như "Thành Huế chúng mình thương", "Phố biển tình anh", "Tình người hương lúa", "Bài thơ thôn Vĩ", "Nhật Lệ trăng huyền thoại"..., cho biết là ông cũng ảnh hưởng ít nhiều nét văn hoá cổ của làng.


< Thợ nề Diêm Điền đắp nổi hình rồng bằng xi măng và khảm đá men trên trụ.

Nhưng theo ông cái mà người Diêm Điền giữ được đến bây giờ, và làm cho đời sống phát triển là nghề truyền thống. Đó là nghề xây và nghề mộc. Ông nội của ông được vua ban là cửu phẩm nhờ có nghề mộc tốt.

Theo các cụ cao tuổi ở làng Diêm Điền, hằng năm làng vẫn mổ bò cúng ông tổ nghề mộc vào ngày 19-12 âm lịch. Thợ mộc Diêm Điền từng được vua nhà Nguyễn mời vào Huế làm một số công trình đền, chùa, lăng tẩm và có người được phong là Cửu phẩm chạm. Nhờ khéo tay, chịu khó nên đến bây giờ người làng Diêm Điền vẫn theo nghề để tung hoành khắp thiên hạ, trở thành một nghiệp lớn của 15% người làng với các sản phẩm tinh xảo như tủ thờ, sập gụ, nhà rường, đồ chạm, khảm...

Bên cạnh nghề mộc là nghề nề. Chưa có địa phương nào ở Quảng Bình có tiếng về nghề này như Diêm Điền. Như nhạc sĩ Hoàng Sông Hương nói, nhờ thợ nề làng Diêm Điền mà đô thị Đồng Hới phát triển như ngày nay. Bàn tay nghề nề của người Diêm Điền quả thật rất khéo.

Đặc biệt hơn là với các công trình có chạm khắc tỉ mỉ như lăng, bia, nhà thờ, miếu mạo... Ở làng cũng có ngôi miếu gọi là miếu Hội Thợ nề, hằng năm đều có thờ cúng nghề nề vào ngày 24-11 âm lịch. Thời Pháp thuộc, ông Bùi Tường làm nhà mát cho một sân vận động với các kiểu kiến trúc Pháp, sau đó được Pháp tặng mề đay vì tay nghề điêu luyện. Hiện nay Diêm Điền có đến 70% hộ trong số 1.114 hộ (5.097 người) có người làm nghề nề, và họ đi làm khắp nơi trong tỉnh.

Ông Nguyễn Văn Tăng, Chánh văn phòng Hội Di sản văn hóa văn nghệ tỉnh, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian: Trong từng vùng đất vẫn có nhiều giọng nói, ngôn ngữ nói khác nhau, lẫn lộn và xen kẽ nhau...

Từ đó nhìn cụ thể ra ở làng Diêm Điền, trước hết nhìn vào gia phả của họ, ta biết được là họ di cư từ phía Bắc vào, mang theo thổ ngữ của vùng đất mà họ sống từ xa xưa. Đã bao đời họ sống giữa lòng thành phố Đồng Hới nhưng vẫn giữ được tiếng nói và ngôn ngữ gốc của họ, cũng cho ta thấy tính bền vững của ngôn ngữ gốc mà họ lưu giữ được.

< Hội yến lão làng Diêm Điền.

Một phần nữa là trong khi đi làm ăn xa (như di cư), họ phải giữ được tiếng nói, ngôn ngữ riêng của mình, nếu mất đi họ sẽ mất gốc. Ở làng Diêm Điền còn có yếu tố quan trọng để họ có tiếng nói khác lạ với xung quanh như hiện giờ chính là sự gắn kết cộng đồng rất chặt chẽ, tính quần cư của họ rất cao, điều đó cho họ sự tồn tại tại nơi ở mới, từ đó tạo nên nét riêng về ngôn ngữ và tiếng nói của họ.

Du lịch, GO! - Theo Lam Giang (Quảng Bình Online), internet